QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊ NIN VỀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI VÀ GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI
Quan điểm của triết học Mác-lênin về bản chất con người và giải phóng con người? Ý nghĩa của quan điểm này đối với việc phát triển con người trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay?
1. Quan điểm của triết học Mác về bản chất con người:
Tiếp thu những hạt nhân hợp lý trong quan niệm của Hê-ghen và Phơ-bách và các nhà triết học tiền bối trước Mác về bản chất của con người. Dựa vào những nguyên tắc thế giới quan của CNDVBC, Mác khẳng định: " Bản chất con người không phải là một cái trìu tượng cố hữu cá nhân con người riêng biệt trong tính hiện thực của nó, bQuan niệm hoàn chỉnh về con người và bản chất con người, phân biệt hai mặt trong bản chất con người là: mặt sinh học và mặt xã hội.
+ Triết học Mác xem xét bản chất con người một cách toàn diện, cụ thể, không phải chung chung, trừu tượng mà trong tính hiện thực cụ thể của nó trong quá trình phát triển của nó.
+ Con người hoà hợp với giới tự nhiên, là một bộ phận của giới tự nhiên, là kết quả phát triển lâu dài của thế giới vật chất.
+ Con người có tính xã hội: trước hết bản thân hoạt động sản xuất của con người mang tính xã hội. Hoạt động con người gắn liền với xã hội và phục vụ cho cả xã hội. Xã hội cùng với tự nhiên là điều kiện tồn tại của con người. Tính xã hội của con người thể hiện ở hoạt động và giao tiếp xã hội.
+ Bản chất con người được hình thành và phát triển cùng với quá tình lao động, giao tiếp trong đời sống xã hội.
2. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về giải phóng con người
- Triết học Mác nói chung, của triết học về con người trong triết học Mác - Lênin nói riêng là vấn đề giải phóng con người, từ giải phóng những con người cụ thể sẽ tiến đến giải phóng nhân loại.
- Các học thuyết triết học duy tâm và tôn giáo quan niệm giải phóng con người là giải thoát về mặt tâm linh để con người có thể đạt được cuộc sống cực lạc vĩnh cửu ở kiếp sau trong một thế giới khác ngoài tự nhiên - Chỉ là giải phóng ảo tưởng.
- Triết học Mác - Lênin xác định 'bất kỳ sự giải phóng nào cũng bao hàm ở chỗ là nó trả thế giới con người, những quan hệ của con người về với bản thân con người là giải phóng người lao động thoát khỏi lao động bị tha hóa'.
- Giải phóng con người là xoá bỏ người bóc lột người, xóa bỏ tha hoá để con người trở về với chính mình, phát triển bản tính chân chính của mình.
- Lênin nhận định: Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là thực hiện sứ mệnh giải phóngcon người.
3. Phát huy vai trò nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới:
+ Con người vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của lịch sử:
+ Con người là sản phẩm của lịch sử: Chính quá trình lao động và việc sáng tạo ra các công cụ lao động đã là nhân tố quyết định đến sự biến vượn người thành người.
+ Con người là chủ thể của lịch sử: Sau khi xuất hiện, con người đã lao động và cải biến thế giới, bằng tri thức của mình con người đã là thay đổi bộ mặt của thế giới vật chất, cùng với sự phát triển của xã hội loài người là sự phát triển của lịch sử, con người trở thành chủ thể của lịch sử. Bởi vì, con người là nhân tố quyết định đến sự phát triển của lịch sử.
+ Sự nghiệp đổi mới nhằm mục tiêu vì hạnh phúc của con người và do con người làm nên. Để phát huy vai trò nhân tố con người cần thiết phải tiến hành một số nội dung sau:
- Giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, tạo ra một hệ thống chính sách, biện pháp và cơ chế vận hành đảm bảo sự phối hợp đúng đắn lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Trong đó, lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp.
- Nâng cao chất lượng cuộc sống con người, nâng cao trình độ và năng lực lao động, nâng cao tay nghề.
- Tạo ra một môi trường công bằng, dân chủ, quan tâm đến lợi ích của từng người và lợi ích của cả cộng đồng.
- Đảng ta khẳng định: kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, kết hợp lợi ích vật chất với lợi ích tinh thần, chăm lo lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài của nhân dân, kết hợp hài hoà các lợi ích, chú ý lợi ích cá nhân người lao động. Nguồn lựccon người là cơ bản nhất của sự nghiệp CNH-HĐH.(coi con người là trung tâm của sự phát triển xã hội).ản chất con người là tổng hoà những mối quan hệ xã hội".
NguoN KHAC
2. Những quan niệm cơ bản của triết học Mác-Lênin về con người
a. Con người là thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội
Kế thừa những điểm tiến bộ trong lịch sử triết học về con người triết học Mác-Lênin khẳng định con người là sự thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội, là một thực thể sinh vật - xã hội.
Mặt sinh vật thể hiện ở chỗ, cũng giống như những động vật khác, con người cũng chịu sự quy định của các quy luật sinh học, của tự nhiên như quy luật đồng hoá và dị hoá, quy luật biến dị và di truyền, v.v. Mặt sinh vật có những tương đồng với động vật cao cấp những đã được người hoá, nhân tính hoá.
Mặt xã hội của con người thể hiện ở chỗ, con người là một loại động vật có tính chất xã hội. Toàn bộ đời sống và hoạt động của con người là do hoàn cảnh xã hội quyết định. Con người chỉ trở thành người đích thực khi sống trong xã hội và có hoạt động xã hội cho mình, cho đồng loại. Trước hết, đó là hoạt động sản xuất vật chất. Chính hoạt động sản xuất vật chất biểu thị bản chất xã hội của con người.
Mặt sinh học (sinh vật) là tiền đề cơ sở cho mặt xã hội của con người. Mặt xã hội chỉ có thể phát triển được trên cơ sở phù hợp với mặt sinh học. Con người là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển con người chịu sự quy định của ba hệ thống quy luật. Quy luật tự nhiên quy định phương diện sinh học của con người. Quy luật tâm lý ý thức quy định sự hình thành tình cảm, niềm tin, khát vọng, v.v của con người, mặc dù chúng được hình thành trên cơ sở nền tảng sinh học của con người. Quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội của con người.
b. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội
C.Mác đã xuất phát từ những cá nhân hiện thực cùng với những hoạt động và những điều kiện sinh hoạt vật chất hiện thực của họ. Những điều kiện mà họ thấy có sẵn trong tự nhiên cũng như những điều kiện do chính họ tạo ra. Như vậy, theo C.Mác con người là một động vật có tính chất xã hội với tất cả các nội dung văn hóa, lịch sử của nó. Đây là điểm xuất phát để nghiên cứu con người của triết học mác-xít.
Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác khẳng định: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”.
Như vậy, bản chất con người không phải là trừu tượng mà là hiện thực, không phải là tự nhiên mà là lịch sử, không phải là cái vốn có trong mỗi cá thể riêng lẻ mà là tổng hòa của toàn bộ quan hệ xã hội. Rõ ràng, con người là con người hiện thực, sống trong những điều kiện lịch sử cụ thể, trong một thời đại xác định. Thông qua các quan hệ xã hội con người bộc lộ bản chất xã hội của mình.
Thừa nhận ý nghĩa quyết định của mặt xã hội đối với việc hình thành bản chất con người, song không có nghĩa là triết học Mác-Lênin coi nhẹ mặt tự nhiên, phủ nhận cái sinh vật trong yếu tố cấu thành bản chất con người. Ở đây, con người với tư cách là sản phẩm của tự nhiên, mặt khác con người là một thực thể xã hội. Sự tác động qua lại giữa mặt sinh vật và mặt xã hội trong con người tạo thành bản chất con người.
Cần phê phán một số quan điểm cực đoan trong mối quan hệ này: phái duy sinh vật và phái duy xã hội hoặc là tách rời hai mặt sinh vật và xã hội trong con người.
c. Con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của lịch sử
Không có tự nhiên, không có lịch sử - xã hội thì không thể có con người. Con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh, nhưng con người luôn là chủ thể lịch sử - xã hội. Con người chủ thể lịch sử - xã hội thể hiện ở chỗ:
- Các cá nhân con người chủ động lựa chọn sự tác động của xã hội đối với mình, không chịu khuất phục trước môi trường, điều kiện khách quan, mà chủ động tác động, cải tạo điều kiện khách quan.
- Nhờ hoạt động thực tiễn mà con người cải tạo tự nhiên đồng thời làm nên lịch sử của mình. Do vậy chính con người đã sáng tạo ra lịch sử. Thông qua hoạt động thực tiễn của mình con người thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao.
III. VAI TRÒ QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN VÀ CÁ NHÂN TRONG LỊCH SỬ
1. Khái niệm quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử
a. Khái niệm quần chúng nhân dân
Quần chúng nhân dân bao gồm tất cả những lực lượng giai cấp, những tập đoàn người, những cá nhân thúc đẩy sự phát triển của xã hội, trong đó chủ yếu là quần chúng lao động. Trong quần chúng nhân dân bao gồm: một là, những người lao động sản xuất ra của cải vật chất, tinh thần của xã hội, đây là hạt nhân của quần chúng nhân dân; hai là, những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị, bóc lột; ba là, những giai cấp, tầng lớp thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội thông qua hoạt động của mình.
Khái niệm quần chúng nhân dân có tính lịch sử. Tuỳ theo chế độ xã hội cụ thể khác nhau mà kết cấu của quần chúng cũng khác nhau; quần chúng nhân dân biến đổi theo phương thức sản xuất.
b. Khái niệm cá nhân trong lịch sử
Vĩ nhân là những cá nhân kiệt xuất trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học, nghệ thuật. Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ là những cá nhân kiệt xuất do phong trào cách mạng quần chúng nhân dân tạo nên.
Cá nhân lãnh tụ là những người có năng lực và phẩm chất tiêu biểu nhất trong phong trào quần chúng, được quần chúng tin yêu và tạo nên. Lãnh tụ có vai trò to lớn quan trọng trong lịch sử. Để trở thành lãnh tụ phải có phẩm chất cơ bản:
Một là, có tri thức khoa học uyên bác, nắm được xu hướng vận động của dân tộc, quốc tế và thời đại;
Hai là, có năng lực tập hợp quần chúng, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng vào nhiệm vụ của dân tộc, quốc tế và thời đại;
Ba là, gắn bó mật thiết với quần chúng, dám hy sinh thân mình vì lợi ích của quần chúng, của dân tộc, quốc tế và thời đại.
Chủ nghĩa Mác-Lênin đánh giá cao vai trò của cá nhân - lãnh tụ trong sự phát triển lịch sử đồng thời kiên quyết chống tệ sùng bái cá nhân.
2. Quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ
a. Quan hệ giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ là quan hệ biện chứng
Đây là quan hệ biện chứng, tính biện chứng của quan hệ này thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân và lãnh tụ thống nhất với nhau. Không có phong trào cách mạng của quần chúng thì không có lãnh tụ. Lãnh tụ có vai trò thúc đẩy phong trào quần chúng, vì họ là những cá nhân ưu tú.
Thứ hai, quần chúng nhan dân và lãnh tụ thống nhất trong mục đích và lợi ích của mình. Chính sự thống nhất lợi ích này đã quy định sự thống nhất về mục tiêu của phong trào; về mục đích và nhận thức cũng như hành động giữa lãnh tụ và cá nhân.
Thứ ba, giữa quần chúng và nhân dân cũng có những khác biệt. Sự khác biệt giữa quần chúng và nhân dân thể hiện ở vai trò cụ thể của lãnh tụ và quần chúng. Quần chúng nhân dân và lãnh tụ khác nhau ở vai trò cụ thể đối với lịch sử, quần chúng đóng vai trò quyết định, lãnh tụ là người dẫn dắt, định hướng phong trào quần chúng, thúc đẩy sự phát triển của phong trào.
b. Vai trò của quần chúng nhân dân
Trước khi triết học Mác ra đời thì không có nhà triết học nào giải quyết đúng vấn đề vai trò quần chúng nhân dân. Theo triết học Mác-Lênin, quần chúng nhân dân người sáng tạo chân chính ra lịch sử. Bởi lẽ, mọi lý tưởng giải phóng con người, giải phóng xã hội muốn thực hiện trên thực tế phải thông qua phong trào quần chúng nhân dân. Quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử bởi các lý do sau:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của mọi xã hội, là người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất - cơ sở tồn tại, phát triển của xã hội. Nói khác đi, hoạt động sản xuất ra của của cải vật chất cho xã hội của quần chúng nhân dân là điều kiện cơ bản quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Thứ hai, quần chúng nhân dân là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội; là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Lịch sử đã chứng minh, không có cuộc cách mạng nào mà lại thiếu sự lực lượng cơ bản là quần chúng nhân dân. Chính quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách mạng xã hội. Vì vậy, người ta hay nói, cách mạng là ngày hội của quần chúng nhân dân là vậy.
Thứ ba, quần chúng nhân dân là người đóng vai trò to lớn trong sự phát triển văn hóa, nghệ thuật và khoa học, là người sáng tạo ra những giá trị văn hoá tinh thần. Hoạt động của quần chúng nhan dân trong thực tiễn là nguồn cảm hứng vô tận cho mọi sáng tạo tinh thần trong xã hội. Hơn nữa, những giá trị văn hoá tinh thần chỉ trở thành trường tồn khi được quần chúng nhân dân chấp nhận, lưu giữ, truyền bá sâu rộng trong nhân dân. Quần chúng nhân dân không chỉ sáng tạo ra những giá trị văn hoá, tinh thần, khoa học mà còn áp dụng những thành tựu đó vào hoạt động thực tiễn.
Xét tất cả các mặt trong đời sống xã hội, từ kinh tế đến chính trị, từ thực tiễn đến tinh thần tư tưởng, thì quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết định lịch sử. Sức mạnh của quần chúng nhân dân là sức mạnh vật chất và mọi sự vận động lịch sử đều do quần chúng trực tiếp tạo ra. Tuy nhiên, chỉ có trong chủ nghĩa xã hội thì vai trò chân chính của nhân dân mới được phát huy một cách triệt để. Vì vậy, cần phê phán những quan điểm không đúng về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo cách mạng luôn đề cao tư tưởng “lấy dân làm gốc”.
c. Vai trò của lãnh tụ
Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
Thứ nhất, lãnh tụ có vai trò nắm bắt xu thế của dân tộc, thời đại trên cơ sở các quy luật khách quan để định hướng phong trào quần chúng.
Thứ hai, định hướng chiến lược và hoạch định chương trình hành động cách mạng.
Thứ ba, tổ chức lực lượng, giáo dục, thuyết phục quần chúng, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhằm giải quyết nhiệm vụ của phong trào.
Chủ nghĩa Mác-Lênin đánh gía đúng vai trò của lãnh tụ nhưng đòi hỏi chống tệ sùng bái cá nhân. Người mắc tệ sùng bái cá nhân sẽ thường đặt mình cao hơn quần chúng, cao hơn tập thể, đứng ngoài đường lối, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Đảng và Nhà nước ta luôn giáo dục cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần vai trò của quần chúng nhân dân, phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét