Thứ Ba, 12 tháng 3, 2013

Tích lũy tư bản là gì? Các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích luỹ? Phân biệt các khái niệm tích tụ với tập trung tư bản?

Tích lũy, tích tuh, tập trung TB


Tích lũy tư bản là gì? Những nhân tố nào ảnh hưởng đến quy  
mô tích lũy tư bản? Thế nào là tích tụ, tập trung TB?
1. Tích lũy tư bản và nhân tố ảnh hưởng đến quy mô của tích 
lũy. 
- Tích lũy tư bản là biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản 
để mở rộng sản xuất, tăng thêm quy mô bóc lột. 
Tích lũy tư bản là tất yếu khách quan do quy luật kinh tế cơ 
bản, quy luật giá trị và cạnh tranh... của phương thức sản xuất tư 
bản chủ nghĩa quy định. Nguồn gốc duy nhất của tư bản tích lũy 
là giá trị thặng dư; thực chất của tích lũy tư bản là biến một phần 
giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm để mở rộng sản xuất. 
- Quy mô tích lũy phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư và 
tỷ lệ phân chia giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm và thu 
nhập (bộ phận giá trị thặng dư nhà tư bản tiêu dùng cho cá nhân). 
Nếu tỷ lệ phân chia không thay đổi, thì quy mô tích lũy phụ thuộc 
vào các nhân tố làm tăng khối lượng giá trị thặng dư như: 
+ Tăng cường bóc lột sức lao động. Nhân tố này biểu hiện ở chỗ 
cắt xén tiền công, tăng cường độ lao động đối với công nhân làm 
thuê. 
+ Tăng năng suất lao động xã hội. Đây là đòn bẩy kinh tế mạnh 
mẽ và có tác dụng thiết thực đối với tích lũy. 
+ Sự chênh lệch ngày càng lớn giữa tư bản sử dụng (tức giá trị 
máy móc, thiết bị được sử dụng) và tư bản tiêu dùng (tức giá trị 
tiêu hao của máy móc, thiết bị đó qua mỗi chu kỳ sản xuất). 
+ Quy mô tư bản ứng trước. Quy mô tư bản ứng trước càng lớn, 
càng có điều kiện phát triển nhanh, do đó tích lũy ngày càng  
nhiều. 
2. Tích tụ tư bản.  
Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô tư bản cá biệt bằng cách 
tư bản hóa một phần giá trị thặng dư. Tích tụ tư bản là kết quả 
trực tiếp của tích lũy tư bản. Chẳng hạn, một tư bản 1.000 đôla 
cộng thêm 100 đôla giá trị thặng dư tư bản hóa thành một tư bản 
lớn hơn là 1.100 đôla. 
Tích tụ tư bản là một tất yếu. Trước hết đó là do yêu cầu của 
quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản, của cạnh tranh và 
của tiến bộ kỹ thuật. Đồng thời trình độ bóc lột và khối lượng giá 
trị thặng dư bóc lột được ngày càng tăng trong quá trình phát 
triển của chủ nghĩa tư bản là điều kiện vật chất làm cho khả năng  
tư bản hóa giá trị thặng dư biến thành hiện thực tích tụ tư bản. 
3. Tập trung tư bản. 
Tập trung tư bản là sự tăng thêm quy mô tư bản bằng cách kết 
hợp nhiều tư bản nhỏ thành một tư bản lớn hơn. Thí dụ: một tư bản 
3.000 đôla hợp lại với một tư bản 2.000 đôla thành một tư bản lớn 
hơn là 5.000 đôla.  
Tập trung tư bản thường diễn ra bằng hai phương pháp. Phương 
pháp cưỡng bức và phương pháp tự nguyện. Phương pháp cưỡng  
bức thể hiện ở chỗ: trong quá trình cạnh tranh, các nhà tư bản lớn 
thôn tính các nhà tư bản nhỏ phá sản. Ở phương pháp tự nguyện 
trong quá trình cạnh tranh, các nhà tư bản không phân thắng bại, 
họ liên hiệp lại và tổ chức các công ty cổ phần để tránh khỏi sự phá 
sản và có đủ sức mạnh cần thiết cho cạnh tranh trên phạm vi mới. 
Nếu tích tụ tư bản làm tăng quy mô tư bản xã hội và phản ánh 
mối quan hệ trực tiếp giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản 
thì tập trung tư bản không làm tăng quy mô tư bản xã hội mà chỉ 
phân phối lại và tổ chức lại tư bản xã hội; nó phản ánh quan hệ 
trực tiếp giữa các nhà tư bản. 
Tích tụ và tập trung tư bản có quan hệ với nhau và tác động  
thúc đẩy nhau. Tích tụ tư bản làm tăng quy mô tư bản cá biệt 
khiến cho cạnh tranh gay gắt hơn, dẫn đến sự tập trung tư bản. 
Tập trung tư bản tạo ra điều kiện để tăng cường bóc lột giá trì 
thặng dư và đẩy mạnh tích tụ tư bản.

Tại sao nói sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản?

-Quy luật kinh tê cơ bản là quy luật phản ánh mục đích và bản chất cua một phương thức sản xuất.MỖi phương thức sản xuất có một quy luật ,kinh tế cơ bản.

-Bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất công nhân phải bán sức lao động cho nhà tư bản.Lao động không công cua người công nhân làm thuê lai nguồn gốc của giá trị thặng dư,nguổn gốc làm giàu của tư bản. -Sản xuất giá trị thặng dư là mục đích duy nhất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa .Vì mục đích đó các nhà TB sản xuất bất kì loại hàng hoa nào ,kể cả vũ khí giết người hàng loạt ,miễn là thu được nhiều giá trị thặng dư,phương tiện để đạt được mục đích đó là tăng cường bóc lột người công nhân làm thuê.(Bằng cách phát triển khoa học kĩ thuật ,kéo thời gian ngày lao động ,tăng năng suất lao động)
-Sản xuất gia trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của CNTB .Nội dung của quy luật là tạo ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản bằng cách tăng cường các biện pháp kĩ thuật và quản lí để bóc lột ngày càng nhiều lao động làm thuê.
-Quy luật giá trị thặng dư có tác dụng mạnh mẽ trong nhiều mặt của đời sống xã hội.MỘt mặt nó thúc đẩy xã hội và phân công lao động xã hội phát triển,làm cho LLSX trong xã hội TBCN phát triển với tốc độ nhanh và nâng cao năng suất lao động.Mặt khác nó làm cho các mâu thuẫn vốn có của CNTB ngày càng trở nên gay gắt.

Giá trị thặng dư là gì? Tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư? Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong chủ nghĩa Tư bản?

Định nghĩa giá trị thặng dư

Giá trị thặng dư được Mac xem là phần chênh lệch giữa giá trị hàng hóa và số tiền nhà tư bản bỏ ra. Trong quá trình kinh doanh, nhà tư bản bỏ ra tư bản dưới hình thức tư liệu sản xuất gọi là tư bản bất biến và bỏ ra tư bản để thuê mướn lao động gọi là tư bản khả biến. Tuy nhiên, người lao động đã đưa vào hàng hóa một lượng giá trị lớn hơn số tư bản khả biến mà nhà tư bản trả cho người lao động. Phần dư ra đó gọi là giá trị thặng dư. Tức là sản lượng của hàng hóa làm ra có giá trị cao hơn phần tiền mà nhà tư bản trả cho công nhân và mức chênh lệch đó chính là giá trị thặng dư.
Có thể lấy một ví dụ như sau để giải thích: Giả sử một người lao động có trong tay giá trị nguyên vật liệu là 1000 đồng. Trên cơ sở sức lao động đã bỏ ra, người lao động đó sẽ làm ra được sản phẩm mới có giá trị 1100 đồng. Số tiền 100 chênh lệch đó chính là giá trị thặng dư sức lao động. Tuy nhiên nhà tư bản chỉ trả lương cho anh ta 50 đồng/1 sản phẩm, có nghĩa 50 đồng còn lại là phần nhà tư bản chiếm của người lao động.


Tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư


Tỷ suất giá trị thặng dư (m') là tỷ lệ phần trăm giữa số lượng giá trị thặng dư (m) với tư bản khả biến (v) và được tính bằng công thức: m' = mv x 100 %
Công thức tính tỷ suất giá trị thặng dư còn có dạng:
m' = t't x 100 %
Trong đó: - t là thời gian lao động tất yếu - t' là thời gian lao động thặng dư
Tỷ suất giá trị thặng dư phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân làm thuê.
Khối lượng giá trị thặng dư (M) là số lượng giá trị thặng dư mà nhà tư bản thu được trong một thời gian sản xuất nhất định và được tính bằng công thức:
M = m' . V hoặc M = mv x V (1)
Trong đó: V là tổng tư bản khả biến được sử dụng trong thời gian trên.
Khối lượng giá trị thặng dư tỷ lệ thuận với cả hai nhân tố m' và V.



Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư 

Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, ngày lao động là thời gian công nhân làm việc gồm hai phần là thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư ở xí nghiệp của nhà tư bản. 
a) Phương pháp thứ nhất. Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu khôngthay đổi. Phương pháp này được áp dụng chủ yếu ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản khi công cụ lao động thủ công thống trị, năng suất lao động cũn thấp. 
b) Phương pháp thứ hai. Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động trong ngành sản suất ra tư liệu sinh hoạt để hị thấp giá trị sức lao động nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động, cường độ lao động vẫn như cũ. 
c) Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do áp dụng công nghệ mới sớm hơn các xí nghiệp khác làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị thi trường của nó. Trong từng xí nghiệp, giá trị thặng dư siêu ngạch là một hiện tượng tạm thời, nhưng trong phạm vi xó hội thỡ nú lại thường xuyên tồn tại. Giá rị thặng dư siêu ngạch là động lực mạnh nhất để thúc đẩy các nhà tư bản đổi mới công nghệ để tăng năng suất lao động cá biệt, đánh bại các đối thủ của mỡnh trong cạnh tranh. C.Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hỡnh thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.



Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản và chìa khóa giải quyết mâu thuẫn đó? Vì sao gọi là công thức lưu thông chung của tư bản?

phân tích mâu thuẫn công thức chung của tư bản

spinner.gif
phân tích mâu thuẫn công thức chung của tư bản?vì sao việc phát hiện ra hàng hóa sức lao động là chìa khóa giải quyết mâu thuẫn đó?
+ Để giải quyết mâu thuẫn chung của tư bản trước hết phải nghiên cứu 2 lưu thông sau: 
-Tiền:là sản vật cuối cùng trong lưu thông hàng hóa đồng thời cũng là hình thức biểu hiền đầu tiên của tư bản,bản thân tiền ko phải là tư bản. 
Tiền trong lưu thông hàng hóa giản đơn vận động theo công thức H-T-H (1) còn tiền đc coi là tư bản thì vận động theo công thức T-H-T (2).sự giống và khác nhau giữa 2 công thức là: 
Giống nhau:-đều do 2 yếu tố cấu thành nên là hàng và tiền 
-đều chứa đựng 2 hành vi đối lập nhau là mua và bán. 
-đều biểu hiện quan hệ kinh tế giữa người mua và bán khác nhau. 
Khác nhau: 
-lưu thông hàng hóa giản đơn bắt đầu= hành vi bán (H-T)và hành vi mua(T-H),điểm xuất phát và kết thúc đều là hàng hóa ,tiền chỉ dóng vai trò trung gian nhưng mục đích là gía trị sử dụng. 
-ngược lại lưu thông của tư bản bắt đầu bằng hành vi mua(T-H) và kết thúc bằng hành vi bán(H-T),tiền vừa là điểm xuất phát vừa là điểm kết thúc còn hàng hóa đóng vai trò trung gian, 
=>tiền trở thành tư bản khi đem lại giá trị thặng dư cho nhà tư bản. 
Công thức T-H-T' với T'=T+m là công thức chung của tư bản=>điểm khác biệt lớn nhất giữa (1) và (2) là sự lớn lên của đồng tiền. 
=>mâu thuẫn công thức chung của tư bản. 
Mua bán ngang giá..... 
Mua bán ko ngang giá...... 
=>lưu thông ko đẻ ra giá trị thặng dư.nhưng nếu người có tiền ko tham gia lưu thông thì cũng ko làm cho tiền của mình lớn lên đc. 
Vậy "giá trị thặng dư ko thể xuất hiện từ lưu thông cũng ko thể xuất hiện ở ngoài lưu thông.Nhưng nó vẫn lớn lên trong lưu thông"=>mâu thuẫn 
*để giải quyết mâu thuẫn chung củacông thức tư bản cần tìm cho thị trường 1 loại hàng hóa mà việc sử dụng nó tạo gia giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó,hàng hóa đó là sức lao động. 
Sức lao động là cái có trước hàng hóa,còn lao động chính là quá trình sử dụng sức lao động đó.giống với các hàng hóa khác,hàng hóa sức lao động cũng có 2 thuộc tính:giá trị và giá trị sử dụng. 
Hàng hóa sức lao động là sự tổng hợp về thể lực và trí lực của con người có thể sử dụng trong qtrinh lao động để tạo ra của cải vật chất. 
Giá trị sức lao động ......... 
Giá trị sử dụng sức lao động thể hiện ở quá trình tiêu dùng(sử dụng)sức lao đông,tức là quá trình lđ để sx ra 1 loại hàng hóa,1 dịch vụ nào đó.Trong quá trình lao động,sức lđ tạo ra 1 lượng giá trị mới lớn hơn gí trị của bản thân nó,phần gí trị mới đó dôi ra so với giá trị sức lao động là giá trị thặng dư. 
=>đó là điểm khác biệt với hàng hóa thông thường vì sau quá trình tiêu dùng hay sd thì cả giá trị hay gt sử dụng đều biến mất theo tg. 
=>Đó là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn cho công thức của tư bản.

Thứ Hai, 10 tháng 12, 2012

Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về con người? Vai trò của cá nhân và quần chúng nhân dân trong lịch sử? Sự vận dụng của Đảng ta trong việc đánh giá vai trò của nhân tố con người đối với sự phát triển đất nước.

QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊ NIN VỀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI VÀ GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI

Quan điểm của triết học Mác-lênin về bản chất con người và giải phóng con người? Ý nghĩa của quan điểm này đối với việc phát triển con người trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay?



1. Quan điểm của triết học Mác về bản chất con người:


Tiếp thu những hạt nhân hợp lý trong quan niệm của Hê-ghen và Phơ-bách và các nhà triết học tiền bối trước Mác về bản chất của con người. Dựa vào những nguyên tắc thế giới quan của CNDVBC, Mác khẳng định: " Bản chất con người không phải là một cái trìu tượng cố hữu cá nhân con người riêng biệt trong tính hiện thực của nó, bQuan niệm hoàn chỉnh về con người và bản chất con người, phân biệt hai mặt trong bản chất con người là: mặt sinh học và mặt xã hội.


+ Triết học Mác xem xét bản chất con người một cách toàn diện, cụ thể, không phải chung chung, trừu tượng mà trong tính hiện thực cụ thể của nó trong quá trình phát triển của nó.
+ Con người hoà hợp với giới tự nhiên, là một bộ phận của giới tự nhiên, là kết quả phát triển lâu dài của thế giới vật chất.

+ Con người có tính xã hội: trước hết bản thân hoạt động sản xuất của con người mang tính xã hội. Hoạt động con người gắn liền với xã hội và phục vụ cho cả xã hội. Xã hội cùng với tự nhiên là điều kiện tồn tại của con người. Tính xã hội của con người thể hiện ở hoạt động và giao tiếp xã hội.

+ Bản chất con người được hình thành và phát triển cùng với quá tình lao động, giao tiếp trong đời sống xã hội.

2. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về giải phóng con người


- Triết học Mác nói chung, của triết học về con người trong triết học Mác - Lênin nói riêng là vấn đề giải phóng con người, từ giải phóng những con người cụ thể sẽ tiến đến giải phóng nhân loại.


- Các học thuyết triết học duy tâm và tôn giáo quan niệm giải phóng con người là giải thoát về mặt tâm linh để con người có thể đạt được cuộc sống cực lạc vĩnh cửu ở kiếp sau trong một thế giới khác ngoài tự nhiên - Chỉ là giải phóng ảo tưởng.

- Triết học Mác - Lênin xác định 'bất kỳ sự giải phóng nào cũng bao hàm ở chỗ là nó trả thế giới con người, những quan hệ của con người về với bản thân con người là giải phóng người lao động thoát khỏi lao động bị tha hóa'.

- Giải phóng con người là xoá bỏ người bóc lột người, xóa bỏ tha hoá để con người trở về với chính mình, phát triển bản tính chân chính của mình.

- Lênin nhận định: Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là thực hiện sứ mệnh giải phóngcon người.

3. Phát huy vai trò nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới:


+ Con người vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của lịch sử:


+ Con người là sản phẩm của lịch sử: Chính quá trình lao động và việc sáng tạo ra các công cụ lao động đã là nhân tố quyết định đến sự biến vượn người thành người.

+ Con người là chủ thể của lịch sử: Sau khi xuất hiện, con người đã lao động và cải biến thế giới, bằng tri thức của mình con người đã là thay đổi bộ mặt của thế giới vật chất, cùng với sự phát triển của xã hội loài người là sự phát triển của lịch sử, con người trở thành chủ thể của lịch sử. Bởi vì, con người là nhân tố quyết định đến sự phát triển của lịch sử.

+ Sự nghiệp đổi mới nhằm mục tiêu vì hạnh phúc của con người và do con người làm nên. Để phát huy vai trò nhân tố con người cần thiết phải tiến hành một số nội dung sau:

- Giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, tạo ra một hệ thống chính sách, biện pháp và cơ chế vận hành đảm bảo sự phối hợp đúng đắn lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Trong đó, lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp.

- Nâng cao chất lượng cuộc sống con người, nâng cao trình độ và năng lực lao động, nâng cao tay nghề.

- Tạo ra một môi trường công bằng, dân chủ, quan tâm đến lợi ích của từng người và lợi ích của cả cộng đồng.

- Đảng ta khẳng định: kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, kết hợp lợi ích vật chất với lợi ích tinh thần, chăm lo lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài của nhân dân, kết hợp hài hoà các lợi ích, chú ý lợi ích cá nhân người lao động. Nguồn lựccon người là cơ bản nhất của sự nghiệp CNH-HĐH.(coi con người là trung tâm của sự phát triển xã hội).ản chất con người là tổng hoà những mối quan hệ xã hội".




NguoN KHAC

2. Những quan niệm cơ bản của triết học Mác-Lênin về con người

a. Con người là thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội

Kế thừa những điểm tiến bộ trong lịch sử triết học về con người triết học Mác-Lênin khẳng định con người là sự thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội, là một thực thể sinh vật - xã hội.

Mặt sinh vật thể hiện ở chỗ, cũng giống như những động vật khác, con người cũng chịu sự quy định của các quy luật sinh học, của tự nhiên như quy luật đồng hoá và dị hoá, quy luật biến dị và di truyền, v.v. Mặt sinh vật có những tương đồng với động vật cao cấp những đã được người hoá, nhân tính hoá.

Mặt xã hội của con người thể hiện ở chỗ, con người là một loại động vật có tính chất xã hội. Toàn bộ đời sống và hoạt động của con người là do hoàn cảnh xã hội quyết định. Con người chỉ trở thành người đích thực khi sống trong xã hội và có hoạt động xã hội cho mình, cho đồng loại. Trước hết, đó là hoạt động sản xuất vật chất. Chính hoạt động sản xuất vật chất biểu thị bản chất xã hội của con người.

Mặt sinh học (sinh vật) là tiền đề cơ sở cho mặt xã hội của con người. Mặt xã hội chỉ có thể phát triển được trên cơ sở phù hợp với mặt sinh học. Con người là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển con người chịu sự quy định của ba hệ thống quy luật. Quy luật tự nhiên quy định phương diện sinh học của con người. Quy luật tâm lý ý thức quy định sự hình thành tình cảm, niềm tin, khát vọng, v.v của con người, mặc dù chúng được hình thành trên cơ sở nền tảng sinh học của con người. Quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội của con người.

b. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội

C.Mác đã xuất phát từ những cá nhân hiện thực cùng với những hoạt động và những điều kiện sinh hoạt vật chất hiện thực của họ. Những điều kiện mà họ thấy có sẵn trong tự nhiên cũng như những điều kiện do chính họ tạo ra. Như vậy, theo C.Mác con người là một động vật có tính chất xã hội với tất cả các nội dung văn hóa, lịch sử của nó. Đây là điểm xuất phát để nghiên cứu con người của triết học mác-xít.

Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác khẳng định: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”.

Như vậy, bản chất con người không phải là trừu tượng mà là hiện thực, không phải là tự nhiên mà là lịch sử, không phải là cái vốn có trong mỗi cá thể riêng lẻ mà là tổng hòa của toàn bộ quan hệ xã hội. Rõ ràng, con người là con người hiện thực, sống trong những điều kiện lịch sử cụ thể, trong một thời đại xác định. Thông qua các quan hệ xã hội con người bộc lộ bản chất xã hội của mình.

Thừa nhận ý nghĩa quyết định của mặt xã hội đối với việc hình thành bản chất con người, song không có nghĩa là triết học Mác-Lênin coi nhẹ mặt tự nhiên, phủ nhận cái sinh vật trong yếu tố cấu thành bản chất con người. Ở đây, con người với tư cách là sản phẩm của tự nhiên, mặt khác con người là một thực thể xã hội. Sự tác động qua lại giữa mặt sinh vật và mặt xã hội trong con người tạo thành bản chất con người.

Cần phê phán một số quan điểm cực đoan trong mối quan hệ này: phái duy sinh vật và phái duy xã hội hoặc là tách rời hai mặt sinh vật và xã hội trong con người.

c. Con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của lịch sử

Không có tự nhiên, không có lịch sử - xã hội thì không thể có con người. Con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh, nhưng con người luôn là chủ thể lịch sử - xã hội. Con người chủ thể lịch sử - xã hội thể hiện ở chỗ:

- Các cá nhân con người chủ động lựa chọn sự tác động của xã hội đối với mình, không chịu khuất phục trước môi trường, điều kiện khách quan, mà chủ động tác động, cải tạo điều kiện khách quan.

- Nhờ hoạt động thực tiễn mà con người cải tạo tự nhiên đồng thời làm nên lịch sử của mình. Do vậy chính con người đã sáng tạo ra lịch sử. Thông qua hoạt động thực tiễn của mình con người thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao.



III. VAI TRÒ QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN VÀ CÁ NHÂN TRONG LỊCH SỬ

1. Khái niệm quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử

a. Khái niệm quần chúng nhân dân

Quần chúng nhân dân bao gồm tất cả những lực lượng giai cấp, những tập đoàn người, những cá nhân thúc đẩy sự phát triển của xã hội, trong đó chủ yếu là quần chúng lao động. Trong quần chúng nhân dân bao gồm: một là, những người lao động sản xuất ra của cải vật chất, tinh thần của xã hội, đây là hạt nhân của quần chúng nhân dân; hai là, những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị, bóc lột; ba là, những giai cấp, tầng lớp thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội thông qua hoạt động của mình.

Khái niệm quần chúng nhân dân có tính lịch sử. Tuỳ theo chế độ xã hội cụ thể khác nhau mà kết cấu của quần chúng cũng khác nhau; quần chúng nhân dân biến đổi theo phương thức sản xuất.

b. Khái niệm cá nhân trong lịch sử

Vĩ nhân là những cá nhân kiệt xuất trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học, nghệ thuật. Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ là những cá nhân kiệt xuất do phong trào cách mạng quần chúng nhân dân tạo nên.

Cá nhân lãnh tụ là những người có năng lực và phẩm chất tiêu biểu nhất trong phong trào quần chúng, được quần chúng tin yêu và tạo nên. Lãnh tụ có vai trò to lớn quan trọng trong lịch sử. Để trở thành lãnh tụ phải có phẩm chất cơ bản:

Một là, có tri thức khoa học uyên bác, nắm được xu hướng vận động của dân tộc, quốc tế và thời đại;

Hai là, có năng lực tập hợp quần chúng, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng vào nhiệm vụ của dân tộc, quốc tế và thời đại;

Ba là, gắn bó mật thiết với quần chúng, dám hy sinh thân mình vì lợi ích của quần chúng, của dân tộc, quốc tế và thời đại.

Chủ nghĩa Mác-Lênin đánh giá cao vai trò của cá nhân - lãnh tụ trong sự phát triển lịch sử đồng thời kiên quyết chống tệ sùng bái cá nhân.

2. Quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ

a. Quan hệ giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ là quan hệ biện chứng

Đây là quan hệ biện chứng, tính biện chứng của quan hệ này thể hiện ở chỗ:

Thứ nhất, quần chúng nhân dân và lãnh tụ thống nhất với nhau. Không có phong trào cách mạng của quần chúng thì không có lãnh tụ. Lãnh tụ có vai trò thúc đẩy phong trào quần chúng, vì họ là những cá nhân ưu tú.

Thứ hai, quần chúng nhan dân và lãnh tụ thống nhất trong mục đích và lợi ích của mình. Chính sự thống nhất lợi ích này đã quy định sự thống nhất về mục tiêu của phong trào; về mục đích và nhận thức cũng như hành động giữa lãnh tụ và cá nhân.

Thứ ba, giữa quần chúng và nhân dân cũng có những khác biệt. Sự khác biệt giữa quần chúng và nhân dân thể hiện ở vai trò cụ thể của lãnh tụ và quần chúng. Quần chúng nhân dân và lãnh tụ khác nhau ở vai trò cụ thể đối với lịch sử, quần chúng đóng vai trò quyết định, lãnh tụ là người dẫn dắt, định hướng phong trào quần chúng, thúc đẩy sự phát triển của phong trào.

b. Vai trò của quần chúng nhân dân

Trước khi triết học Mác ra đời thì không có nhà triết học nào giải quyết đúng vấn đề vai trò quần chúng nhân dân. Theo triết học Mác-Lênin, quần chúng nhân dân người sáng tạo chân chính ra lịch sử. Bởi lẽ, mọi lý tưởng giải phóng con người, giải phóng xã hội muốn thực hiện trên thực tế phải thông qua phong trào quần chúng nhân dân. Quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử bởi các lý do sau:

Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của mọi xã hội, là người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất - cơ sở tồn tại, phát triển của xã hội. Nói khác đi, hoạt động sản xuất ra của của cải vật chất cho xã hội của quần chúng nhân dân là điều kiện cơ bản quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.

Thứ hai, quần chúng nhân dân là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội; là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Lịch sử đã chứng minh, không có cuộc cách mạng nào mà lại thiếu sự lực lượng cơ bản là quần chúng nhân dân. Chính quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách mạng xã hội. Vì vậy, người ta hay nói, cách mạng là ngày hội của quần chúng nhân dân là vậy.

Thứ ba, quần chúng nhân dân là người đóng vai trò to lớn trong sự phát triển văn hóa, nghệ thuật và khoa học, là người sáng tạo ra những giá trị văn hoá tinh thần. Hoạt động của quần chúng nhan dân trong thực tiễn là nguồn cảm hứng vô tận cho mọi sáng tạo tinh thần trong xã hội. Hơn nữa, những giá trị văn hoá tinh thần chỉ trở thành trường tồn khi được quần chúng nhân dân chấp nhận, lưu giữ, truyền bá sâu rộng trong nhân dân. Quần chúng nhân dân không chỉ sáng tạo ra những giá trị văn hoá, tinh thần, khoa học mà còn áp dụng những thành tựu đó vào hoạt động thực tiễn.

Xét tất cả các mặt trong đời sống xã hội, từ kinh tế đến chính trị, từ thực tiễn đến tinh thần tư tưởng, thì quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết định lịch sử. Sức mạnh của quần chúng nhân dân là sức mạnh vật chất và mọi sự vận động lịch sử đều do quần chúng trực tiếp tạo ra. Tuy nhiên, chỉ có trong chủ nghĩa xã hội thì vai trò chân chính của nhân dân mới được phát huy một cách triệt để. Vì vậy, cần phê phán những quan điểm không đúng về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo cách mạng luôn đề cao tư tưởng “lấy dân làm gốc”.

c. Vai trò của lãnh tụ

Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ có những nhiệm vụ chủ yếu sau:

Thứ nhất, lãnh tụ có vai trò nắm bắt xu thế của dân tộc, thời đại trên cơ sở các quy luật khách quan để định hướng phong trào quần chúng.

Thứ hai, định hướng chiến lược và hoạch định chương trình hành động cách mạng.

Thứ ba, tổ chức lực lượng, giáo dục, thuyết phục quần chúng, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhằm giải quyết nhiệm vụ của phong trào.

Chủ nghĩa Mác-Lênin đánh gía đúng vai trò của lãnh tụ nhưng đòi hỏi chống tệ sùng bái cá nhân. Người mắc tệ sùng bái cá nhân sẽ thường đặt mình cao hơn quần chúng, cao hơn tập thể, đứng ngoài đường lối, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Đảng và Nhà nước ta luôn giáo dục cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần vai trò của quần chúng nhân dân, phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng.

Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội và sự vận dụng của Đảng ta?

Nội dung cơ bản như sau:
1. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.
Khi khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử không xem ý thức xã hội như một yếu tố thụ động, trái lại còn nhấn mạnh tác dụng tích cực của ý thức xã hội đối với đời sống kinh tế - xã hội, nhấn mạnh tính độc lập tương đối của ý thức xã hội trong mối quan hệ với tồn tại xã hội. Tính độc lập tương đối biểu hiện ở những điểm sau đây:
a. Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội
Lịch sử xã hội cho thấy, nhiều khi tồn tại xã hội cũ đã mất đi, nhưng ý thức xã hội cũ tương ứng vẫn còn tồn tại dai dẳng; điều đó biểu hiện ý thức xã hội muốn thoát ly khỏi sự ràng buộc của tồn tại xã hội, biểu hiện tính độc lập tương đối. Sở dĩ có biểu hiện đó là do những nguyên nhân sau:
Một là, sự biến đổi của tồn tại xã hội thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội không phản ánh kịp sự thay đổi đó và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.
Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.
Ba là, trong xã hội có giai cấp, các giai cấp và lực lượng phản tiến bộ thường lưu giữ một số tư tưởng có lợi cho họ nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.
Như vậy ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng. Cho nên trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng, đấu tranh chống lại âm mưu và hành động phá hoại những lực lượng thù địch về mặt tư tưởng, kiên trì xoá bỏ những tàn dư ý thức cũ.
b. Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Khi khẳng định tính lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội, triết học Mác - Lênin đồng thời thừa nhận rằng, trong những điều kiện nhất định tư tưởng của con người, đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người. Sở dĩ có thể vượt trước được là do đặc điểm của tư tưởng khoa học quy định. Tư tưởng khoa học thường khái quát tồn tại xã hội đã có và hiện có để rút ra những quy luật phát triển chung của xã hội, quy luật đó không những phản ánh đúng quá khứ, hiện tại mà còn dự báo đúng tồn tại xã hội mai sau.
Chẳng hạn, ngay từ khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đang ở trong thời kỳ phát triển tự do cạnh tranh, Các Mác đã dự báo quan hệ sản xuất đó nhất định sẽ bị quan hệ sản xuất tiến bộ hơn thay thế.
Khi nói, tư tưởng tiên tiến có thể vượt trước tồn tại xã hội thì không có nghĩa ý thức xã hội không còn bị tồn tại xã hội quyết định. Mà là, cho đến cùng nó luôn bị tồn tại xã hội quy định.
c. Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển
Lịch sử phát triển của đời sống tinh thần xã hội cho thấy rằng, những quan điểm lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà được tạo ra trên cơ sở kế thừa những tài liệu lý luận của các thời đại trước. Thí dụ, chủ nghĩa Mác đã kế thừa những tinh hoa tư tưởng của loài người mà trực tiếp là nền triết học Đức, kinh tế học cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính chất giai cấp của nó. Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các thời đại trước, Các giai cấp tiên tiến thường kế thừa những di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại. Thí dụ, khi làm cuộc cách mạng tư sản chống phong kiến, các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản đã khôi phục những tư tưởng duy vật và nhân bản của thời đại cổ đại. Ngược lại, những giai cấp lỗi thời thì tiếp thu, khôi phục những tư tưởng, lý thuyết phản tiến bộ của thời kỳ lịch sử trước. Thí dụ, vào nửa sau thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, các thế lực tư sản phản động đã khôi phục và phát triển những trào lưu triết học duy tâm, tôn giáo dưới những cái tên mới như chủ nghĩa Cantơ mới, chủ nghĩa Tômát mới, để chống lại phong trào cách mạng của giai cấp công nhân.
Vì vậy, khi tiến hành cuộc đấu tranh trên lĩnh vực ý thức hệ thì không những phải vạch ra tính chất phản khoa học của những trào lưu tư tưởng phản động trong điều kiện tại, mà còn phải chỉ ra những nguồn gốc lý luận của chúng trong lịch sử.
Do ý thức xã hội có tính kế thừa, nên khi nghiên cứu một tư tưởng nào đó phải dựa và quan hệ kinh tế hiện và phải chú ý đến các giai đoạn phát triển tư tưởng trước đó. Có như vậy mới hiểu rõ vì sao một nước có trình độ phát triển tương đối kém về kinh tế nhưng tư tưởng lại ở trình độ cao. Thí dụ, nước Đức ở đầu thế kỷ XIX lạc hậu về kinh tế, nhưng đã đứng ở trình độ cao hơn về triết học.
Nắm vững quan điểm kế thừa của ý thức xã hội có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng. Đảng ta đã khẳng định, trong điều kiện mở rộng giao lưu quốc tế phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa các dân tộc khác trên thế giới, làm giàu đẹp hơn nền văn hoá Việt Nam .
d. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng
Ý thức xã hội bao gồm nhiều bộ phận, nhiều hình thái khác nhau, theo nguyên lý mối liên hệ thì giữa các bộ phận không tách rời nhau, mà thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động đó làm cho ở mỗi hình thái ý thức có những mặt, những tính chất không phải là kết quả phản ánh một cách trực tiếp của tồn tại xã hội.
Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu sẽ tác động mạnh đến các hình thái khác. Chẳng hạn ở thời cổ đại Tây Âu thì triết học và nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt. Thời Trung Cổ ở Tây Âu thì tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến triết học, nghệ thuật, pháp quyền... Ngày nay thì hệ tư tưởng chính trị và khoa học đang tác động đến các lĩnh vực của đời sống tinh thần xã hội.
e. Ý thức xã hội tác động trở tồn tại xã hội 
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt đối hoá vai trò của ý thức xã hội mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường khi phủ nhận tác động tích cực của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Ph.Ăng ghen viết: “Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật v.v đều dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế”.
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể; vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh; vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng và vào mức độ mở rộng của tư tưởng trong quần chúng. Chẳng hạn hệ tư tưởng tư sản đã tác động mạnh mẽ đến xã hội các nước Tây Âu thế kỷ XVII, XVIII. Hệ tư tưởng vô sản trở thành vũ khí về mặt tư tưởng của giai cấp vô sản đấu tranh để xoá bỏ xã hội tư bản.
Sự tác động của ý thức xã hội tới tồn tại xã hội biểu hiện qua hai chiều hướng. Nếu ý thức xã hội tiến bộ thì tác động thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển, nếu ý thức xã hội lạc hậu sẽ cản trở sự phát triển của tồn
Tại xã hội.
Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển ý thức xã hội, nó bác bỏ quan điểm siêu hình, máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
2. Ý nghĩa trong xây dựng văn hóa Việt Nam.
Trong xã hội Việt Nam hiện nay, bên cạnh những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, có không ít vấn đề đặt ra đòi hỏi phải giải quyết. Đó là cuộc đấu tranh giữa hai lối sống; một bên là lối sống có lý tưởng, lành mạnh, trung thực; một bên là lối sống thực dụng, ích kỷ, dối trá. Vì vậy, giáo dục đạo đức mới cho mọi người, làm lành mạnh đời sống tinh thần là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
Nắm vững và vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về nghệ thuật, Đảng ta đã đề ra đường lối văn nghệ đúng đắn. Nhờ đường lối đó, nền văn nghệ nước ta đã đạt được thành tựu to lớn, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.



KHAC"''''

Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội


Ý thức xã hội thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần của xã hội, bao gồm những tư tưởng, quan điểm, lý luận, tình cảm, tâm trạng… phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định.

Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội của con người vào đời sống tinh thần chứ không phải toàn bộ đời sống tinh thần.

Tùy góc độ khái quát mà người ta chia ý thức xã hội thành các bộ phận khác nhau. Ở góc độ trình độ và cấp độ của ý thức thì chia ý thức xã hội thành:

+ Ý thức thông thường và ý thức lý luận.

+ Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.

Ý thức xã hội ra đời từ tồn tại xã hội, nhưng sau khi ra đời nó lại có đời sống riêng, quy luật vận động riêng, do đó, nó có tính độc lập. Nhưng tính độc lập của ý thức xã hội vẫn bị tồn tại xã hội chi phối, vì vậy, sự độc lập của ý thức xã hội chỉ là tương đối.

Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội biểu hiện ở những đặc điểm phản ánh của nó với tồn tại xã hội. Nội dung tính độc lập tương đối của ý thức xã hội được phân tích trên các phương diện chính sau đây:

Thứ nhất, ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội.

Một là, do bản chất của ý thức xã hội chỉ là sự phán ánh của tồn tại xã hội cho nên nói chung ý thức xã hội chỉ có thể biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội. Mặt khác, sự biến đổi của tồn tại xã hội do sự tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực tiếp của hoạt động thực tiễn, diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức không thể phản ánh kịp.

Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.

Ba là, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.

Thứ hai, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội.

Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người, đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó vào việc giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất của xã hội đặt ra. Tuy nhiên, suy đến cùng, khả năng phản ánh vượt trước ý thức xã hội vẫn phụ thuộc vào tồn tại xã hội.

Thứ ba, ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển

Lịch sử phát triển đời sống tinh thần của xã hội cho thấy rằng, những quan điểm lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà được tạo ra trên cơ sở kế thừa những tài liệu lý luận của các thời đại trước.
Do ý thức có tính kế thừa trong sự phát triển, nên không thể giải thích được một tư tưởng nào đó nếu chỉ dựa vào những quan hệ kinh tế hiện có, không chú ý đến các giai đoạn phát triển tư tưởng trước đó. Lịch sử phát triển của tư tưởng đã cho thấy những giai đoạn hưng thịnh hoặc suy tàn của triết học, văn học, nghệ thuật, v.v… nhiều khi không phù hợp hoàn toàn với những giai đoạn hưng thịnh hoặc suy tàn của kinh tế.

Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính chất giai cấp của nó. Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các thời đại trước. Các giai cấp tiên tiến tiếp nhận những di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại.

Thứ tư, sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng.

Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội là một nguyên nhân làm cho trong mỗi hình thái ý thức có những mặt, những tính chất không thể giải thích được một cách trực tiếp từ tồn tại xã hội.

Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại, tùy theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu và tác động mạnh đến các hình thái ý thức khác. Ở Hy Lạp thời cổ, triết học và nghệ thuật đã từng đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Ở Tây Âu thời trung cổ thì tôn giáo đã có một ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt tinh thần của xã hội như: triết học, đạo đức, nghệ thuật, chính trị, pháp quyền.

Thứ năm, ý thức xã hội có khả năng tác động trở lại tồn tại xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những phê phán quan điểm duy tâm (tuyệt đối hoá vai trò của ý thức xã hội mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường hay “chủ nghĩa duy vật kinh tế” (tức quan điểm phủ nhận tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội).

Theo Ph.Ăng ghen: “Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, v.v…đều dựa trên cơ sở sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế”.
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể; vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh; vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng; vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với nhu cầu phát triển xã hội; vào mức độ mở rộng tư tưởng trong quần chúng,…. Cũng do đó, cần phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý thức tư tưởng phản tiến bộ đối với sự phát triển xã hội.

Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đã chỉ ra bức tranh phức tạp trong lịch sử phát triển của ý thức xã hội và đời sống tinh thần xã hội nói chung. Nó bác bỏ mọi quan điểm siêu hình, máy móc tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.

Quan điểm duy vật mácxít về vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý thức xã hội là một trong những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, một trong những cơ sở phương pháp luận căn bản của hoạt động nhận thức và thực tiễn.

Theo nguyên lý này, một mặt, việc nhận thức các hiện tượng của đời sống tinh thần xã hội cần phải căn cứ vào tồn tại xã hội đã làm nảy sinh ra nó; mặt khác cũng cần phải giải thích các hiện tượng đó từ những phương diện khác nhau thuộc nội dung tính độc lập tưởng đối của chúng. Do đó, trong thực tiễn cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới cần phải được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó việc thay đổi tồn tại xã hội cũ là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi ý thức xã hội cũ. Đồng thời, cũng cần thấy rằng không chỉ những biến đồi trong tồn tại xã hội mới tất yếu dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần của xã hội mà ngược lại, những tác động của đời sống tinh thần xã hội, với những điều kiện xác định cũng có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội.

Vai trò của cách mạng xã hội đối với sự phát triển XH?


Vai trò của CMXH

Dành riêng cho


Các cuộc cách mạng xã hội có vai trò to lớn trong đời sống xã hội.
Chỉ có cách
mạng xã hội mới thay thế được quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới, tiến bộ,
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển; mới thay thế được hình thái kinh tế - xã hội cũ
bằng hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn.
Cách mạng xã hội là bước chuyển biến vĩ
đại trong đời sống xã hội về kinh tế - chính trị - văn hóa - tư tưởng. Trong các thời kỳ
cách mạng xã hội, năng lực sáng tạo của quần chúng nhân dân được phát huy một cách
cao độ, như C.Mác đã nói: cách mạng xã hội là đầu tàu của lịch sử.
Lịch sử nhân loại đã chứng minh đầy đủ và rõ nét vai trò của cách mạng xã hội qua
bốn cuộc cách mạng xã hội đưa nhân loại trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp
nhau là: Cuộc cách mạng xã hội thực hiện bước chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội
nguyên thuỷ lên hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ; cuộc cách mạng chuyển chế
độ nô lệ lên chế độ phong kiến; cuộc cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến, xác lập
chế độ tư bản chủ nghĩa; cuộc cách mạng vô sản lật đổ chủ nghĩa tư bản, xác lập chế độ
xã hội chủ nghĩa và tiến lên cộng sản chủ nghĩa.
Cuộc cách mạng vô sản là một kiểu cách mạng xã hội mới về chất. Nếu tất cả các
cuộc cách mạng xã hội trước chỉ là sự thay thế hình thức của chế độ chiếm hữu tư nhân,
thay thế hình thức người bóc lột người, thì cách mạng vô sản nhằm xây dựng xã hội mới
không có giai cấp để giải phóng triệt để con người. Đó là sự chuyển biến sâu sắc nhất
trong lịch sử nhân loại.