Nội dung cơ bản như sau:
1. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.
Khi
khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội,
chủ nghĩa duy vật lịch sử không xem ý thức xã hội như một yếu tố thụ
động, trái lại còn nhấn mạnh tác dụng tích cực của ý thức xã hội đối với
đời sống kinh tế - xã hội, nhấn mạnh tính độc lập tương đối của ý thức
xã hội trong mối quan hệ với tồn tại xã hội. Tính độc lập tương đối biểu
hiện ở những điểm sau đây:
a. Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội
Lịch
sử xã hội cho thấy, nhiều khi tồn tại xã hội cũ đã mất đi, nhưng ý thức
xã hội cũ tương ứng vẫn còn tồn tại dai dẳng; điều đó biểu hiện ý thức
xã hội muốn thoát ly khỏi sự ràng buộc của tồn tại xã hội, biểu hiện
tính độc lập tương đối. Sở dĩ có biểu hiện đó là do những nguyên nhân
sau:
Một là, sự biến đổi của tồn tại xã hội thường diễn ra với tốc độ
nhanh mà ý thức xã hội không phản ánh kịp sự thay đổi đó và trở nên lạc
hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói
chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.
Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.
Ba
là, trong xã hội có giai cấp, các giai cấp và lực lượng phản tiến bộ
thường lưu giữ một số tư tưởng có lợi cho họ nhằm chống lại các lực
lượng xã hội tiến bộ.
Như vậy ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi
một cách dễ dàng. Cho nên trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới phải
thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng, đấu tranh chống lại âm mưu và
hành động phá hoại những lực lượng thù địch về mặt tư tưởng, kiên trì
xoá bỏ những tàn dư ý thức cũ.
b. Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Khi
khẳng định tính lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội,
triết học Mác - Lênin đồng thời thừa nhận rằng, trong những điều kiện
nhất định tư tưởng của con người, đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên
tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được
tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con
người. Sở dĩ có thể vượt trước được là do đặc điểm của tư tưởng khoa học
quy định. Tư tưởng khoa học thường khái quát tồn tại xã hội đã có và
hiện có để rút ra những quy luật phát triển chung của xã hội, quy luật
đó không những phản ánh đúng quá khứ, hiện tại mà còn dự báo đúng tồn
tại xã hội mai sau.
Chẳng hạn, ngay từ khi quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa đang ở trong thời kỳ phát triển tự do cạnh tranh, Các Mác đã
dự báo quan hệ sản xuất đó nhất định sẽ bị quan hệ sản xuất tiến bộ hơn
thay thế.
Khi nói, tư tưởng tiên tiến có thể vượt trước tồn tại xã
hội thì không có nghĩa ý thức xã hội không còn bị tồn tại xã hội quyết
định. Mà là, cho đến cùng nó luôn bị tồn tại xã hội quy định.
c. Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển
Lịch
sử phát triển của đời sống tinh thần xã hội cho thấy rằng, những quan
điểm lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không
mà được tạo ra trên cơ sở kế thừa những tài liệu lý luận của các thời
đại trước. Thí dụ, chủ nghĩa Mác đã kế thừa những tinh hoa tư tưởng của
loài người mà trực tiếp là nền triết học Đức, kinh tế học cổ điển Anh và
chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
Trong xã hội có giai cấp, tính
chất kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính chất giai cấp của nó. Những
giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các thời
đại trước, Các giai cấp tiên tiến thường kế thừa những di sản tư tưởng
tiến bộ của xã hội cũ để lại. Thí dụ, khi làm cuộc cách mạng tư sản
chống phong kiến, các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản đã khôi phục
những tư tưởng duy vật và nhân bản của thời đại cổ đại. Ngược lại, những
giai cấp lỗi thời thì tiếp thu, khôi phục những tư tưởng, lý thuyết
phản tiến bộ của thời kỳ lịch sử trước. Thí dụ, vào nửa sau thế kỷ XIX
và đầu thế kỷ XX, các thế lực tư sản phản động đã khôi phục và phát
triển những trào lưu triết học duy tâm, tôn giáo dưới những cái tên mới
như chủ nghĩa Cantơ mới, chủ nghĩa Tômát mới, để chống lại phong trào
cách mạng của giai cấp công nhân.
Vì vậy, khi tiến hành cuộc đấu
tranh trên lĩnh vực ý thức hệ thì không những phải vạch ra tính chất
phản khoa học của những trào lưu tư tưởng phản động trong điều kiện tại,
mà còn phải chỉ ra những nguồn gốc lý luận của chúng trong lịch sử.
Do
ý thức xã hội có tính kế thừa, nên khi nghiên cứu một tư tưởng nào đó
phải dựa và quan hệ kinh tế hiện và phải chú ý đến các giai đoạn phát
triển tư tưởng trước đó. Có như vậy mới hiểu rõ vì sao một nước có trình
độ phát triển tương đối kém về kinh tế nhưng tư tưởng lại ở trình độ
cao. Thí dụ, nước Đức ở đầu thế kỷ XIX lạc hậu về kinh tế, nhưng đã đứng
ở trình độ cao hơn về triết học.
Nắm vững quan điểm kế thừa của ý
thức xã hội có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc đổi mới của nước ta
hiện nay trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng. Đảng ta đã khẳng định, trong
điều kiện mở rộng giao lưu quốc tế phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và
nâng cao bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa các dân tộc khác trên thế
giới, làm giàu đẹp hơn nền văn hoá Việt Nam .
d. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng
Ý
thức xã hội bao gồm nhiều bộ phận, nhiều hình thái khác nhau, theo
nguyên lý mối liên hệ thì giữa các bộ phận không tách rời nhau, mà
thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động đó làm cho ở mỗi
hình thái ý thức có những mặt, những tính chất không phải là kết quả
phản ánh một cách trực tiếp của tồn tại xã hội.
Lịch sử phát triển
của ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại tuỳ theo hoàn
cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu sẽ
tác động mạnh đến các hình thái khác. Chẳng hạn ở thời cổ đại Tây Âu
thì triết học và nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt. Thời Trung Cổ ở Tây
Âu thì tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến triết học, nghệ thuật, pháp
quyền... Ngày nay thì hệ tư tưởng chính trị và khoa học đang tác động
đến các lĩnh vực của đời sống tinh thần xã hội.
e. Ý thức xã hội tác động trở tồn tại xã hội
Chủ
nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt đối
hoá vai trò của ý thức xã hội mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm
thường khi phủ nhận tác động tích cực của ý thức xã hội đối với tồn tại
xã hội. Ph.Ăng ghen viết: “Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật,
triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật v.v đều dựa vào sự phát triển
kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến
cơ sở kinh tế”.
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển
xã hội phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể; vào tính chất của các mối
quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh; vào vai trò lịch sử của
giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng và vào mức độ mở rộng của tư tưởng trong
quần chúng. Chẳng hạn hệ tư tưởng tư sản đã tác động mạnh mẽ đến xã hội
các nước Tây Âu thế kỷ XVII, XVIII. Hệ tư tưởng vô sản trở thành vũ khí
về mặt tư tưởng của giai cấp vô sản đấu tranh để xoá bỏ xã hội tư bản.
Sự
tác động của ý thức xã hội tới tồn tại xã hội biểu hiện qua hai chiều
hướng. Nếu ý thức xã hội tiến bộ thì tác động thúc đẩy tồn tại xã hội
phát triển, nếu ý thức xã hội lạc hậu sẽ cản trở sự phát triển của tồn
Tại xã hội.
Như
vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối
của ý thức xã hội chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển ý
thức xã hội, nó bác bỏ quan điểm siêu hình, máy móc, tầm thường về mối
quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
2. Ý nghĩa trong xây dựng văn hóa Việt Nam.
Trong
xã hội Việt Nam hiện nay, bên cạnh những truyền thống đạo đức tốt đẹp
của dân tộc, có không ít vấn đề đặt ra đòi hỏi phải giải quyết. Đó là
cuộc đấu tranh giữa hai lối sống; một bên là lối sống có lý tưởng, lành
mạnh, trung thực; một bên là lối sống thực dụng, ích kỷ, dối trá. Vì
vậy, giáo dục đạo đức mới cho mọi người, làm lành mạnh đời sống tinh
thần là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công cuộc đổi mới ở nước
ta hiện nay.
Nắm vững và vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác -
Lênin về nghệ thuật, Đảng ta đã đề ra đường lối văn nghệ đúng đắn. Nhờ
đường lối đó, nền văn nghệ nước ta đã đạt được thành tựu to lớn, góp
phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
KHAC"''''
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
Ý thức xã hội thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần của xã hội, bao gồm
những tư tưởng, quan điểm, lý luận, tình cảm, tâm trạng… phản ánh tồn
tại xã hội trong những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định.
Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội của con người vào đời sống tinh thần chứ không phải toàn bộ đời sống tinh thần.
Tùy góc độ khái quát mà người ta chia ý thức xã hội thành các bộ phận
khác nhau. Ở góc độ trình độ và cấp độ của ý thức thì chia ý thức xã hội
thành:
+ Ý thức thông thường và ý thức lý luận.
+ Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.
Ý thức xã hội ra đời từ tồn tại xã hội, nhưng sau khi ra đời nó lại có
đời sống riêng, quy luật vận động riêng, do đó, nó có tính độc lập.
Nhưng tính độc lập của ý thức xã hội vẫn bị tồn tại xã hội chi phối, vì
vậy, sự độc lập của ý thức xã hội chỉ là tương đối.
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội biểu hiện ở những đặc điểm phản
ánh của nó với tồn tại xã hội. Nội dung tính độc lập tương đối của ý
thức xã hội được phân tích trên các phương diện chính sau đây:
Thứ nhất, ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội.
Một là, do bản chất của ý thức xã hội chỉ là sự phán ánh của tồn tại xã
hội cho nên nói chung ý thức xã hội chỉ có thể biến đổi sau khi có sự
biến đổi của tồn tại xã hội. Mặt khác, sự biến đổi của tồn tại xã hội do
sự tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực tiếp của hoạt động thực tiễn,
diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức không thể phản ánh kịp.
Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.
Ba là, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập
đoàn người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư
tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ
và truyền bá nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.
Thứ hai, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội.
Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người, đặc biệt những
tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại
xã hội, dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động
thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó vào việc giải quyết những
nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất của xã hội
đặt ra. Tuy nhiên, suy đến cùng, khả năng phản ánh vượt trước ý thức xã
hội vẫn phụ thuộc vào tồn tại xã hội.
Thứ ba, ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển
Lịch sử phát triển đời sống tinh thần của xã hội cho thấy rằng, những
quan điểm lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống
không mà được tạo ra trên cơ sở kế thừa những tài liệu lý luận của các
thời đại trước.
Do ý thức có tính kế thừa trong sự phát triển, nên không thể giải thích
được một tư tưởng nào đó nếu chỉ dựa vào những quan hệ kinh tế hiện có,
không chú ý đến các giai đoạn phát triển tư tưởng trước đó. Lịch sử phát
triển của tư tưởng đã cho thấy những giai đoạn hưng thịnh hoặc suy tàn
của triết học, văn học, nghệ thuật, v.v… nhiều khi không phù hợp hoàn
toàn với những giai đoạn hưng thịnh hoặc suy tàn của kinh tế.
Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội gắn với
tính chất giai cấp của nó. Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội
dung ý thức khác nhau của các thời đại trước. Các giai cấp tiên tiến
tiếp nhận những di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại.
Thứ tư, sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng.
Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội là một nguyên nhân
làm cho trong mỗi hình thái ý thức có những mặt, những tính chất không
thể giải thích được một cách trực tiếp từ tồn tại xã hội.
Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời
đại, tùy theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý thức
nào đó nổi lên hàng đầu và tác động mạnh đến các hình thái ý thức khác. Ở
Hy Lạp thời cổ, triết học và nghệ thuật đã từng đóng vai trò đặc biệt
quan trọng. Ở Tây Âu thời trung cổ thì tôn giáo đã có một ảnh hưởng mạnh
mẽ đến mọi mặt tinh thần của xã hội như: triết học, đạo đức, nghệ
thuật, chính trị, pháp quyền.
Thứ năm, ý thức xã hội có khả năng tác động trở lại tồn tại xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những phê phán quan điểm duy tâm (tuyệt
đối hoá vai trò của ý thức xã hội mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm
thường hay “chủ nghĩa duy vật kinh tế” (tức quan điểm phủ nhận tác dụng
tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội).
Theo Ph.Ăng ghen: “Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học,
tôn giáo, văn học, nghệ thuật, v.v…đều dựa trên cơ sở sự phát triển kinh
tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ
sở kinh tế”.
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào
những điều kiện lịch sử cụ thể; vào tính chất của các mối quan hệ kinh
tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh; vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn
cờ tư tưởng; vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với nhu cầu
phát triển xã hội; vào mức độ mở rộng tư tưởng trong quần chúng,…. Cũng
do đó, cần phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý thức tư
tưởng phản tiến bộ đối với sự phát triển xã hội.
Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương
đối của ý thức xã hội đã chỉ ra bức tranh phức tạp trong lịch sử phát
triển của ý thức xã hội và đời sống tinh thần xã hội nói chung. Nó bác
bỏ mọi quan điểm siêu hình, máy móc tầm thường về mối quan hệ giữa tồn
tại xã hội và ý thức xã hội.
Quan điểm duy vật mácxít về vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối
với ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý thức xã hội là một
trong những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, một trong
những cơ sở phương pháp luận căn bản của hoạt động nhận thức và thực
tiễn.
Theo nguyên lý này, một mặt, việc nhận thức các hiện tượng của đời sống
tinh thần xã hội cần phải căn cứ vào tồn tại xã hội đã làm nảy sinh ra
nó; mặt khác cũng cần phải giải thích các hiện tượng đó từ những phương
diện khác nhau thuộc nội dung tính độc lập tưởng đối của chúng. Do đó,
trong thực tiễn cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới cần phải được
tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội,
trong đó việc thay đổi tồn tại xã hội cũ là điều kiện cơ bản nhất để
thay đổi ý thức xã hội cũ. Đồng thời, cũng cần thấy rằng không chỉ những
biến đồi trong tồn tại xã hội mới tất yếu dẫn đến những thay đổi to lớn
trong đời sống tinh thần của xã hội mà ngược lại, những tác động của
đời sống tinh thần xã hội, với những điều kiện xác định cũng có thể tạo
ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội.